"Người Trung Quốc xưa nay được mệnh danh là cha đẻ của pháo. Nhưng ít ai biết rằng chính người Việt Nam lại là thầy dạy đúc pháo của người Trung Quốc. Người thầy ấy không ai khác mà chính là Hồ Nguyên Trừng. Ông là con trưởng của Hồ Quý Ly và là người có biệt tài về đúc súng, pháo. Sau khi nhà Hồ bị quân Minh tiêu diệt, cha con ông cùng nhiều quan lại bộ thuộc bị bắt sang Trung Quốc.
Hồ Nguyên Trừng có tên chữ là Mạnh Nguyên, hiệu Nam Ông, là người huyện Vĩnh Phúc, lộ Thanh Hoa (Thanh Hóa). Ông là anh của vua Hồ Hán Thương. Dưới triều nhà Trần, Hồ Nguyên Trừng từng giữ chức Thượng lân tự, Tư đồ. Đầu năm 1400, cha ông truất ngôi Trần Thiếu Đế, tự lên ngôi vua và lập nên nhà Hồ. Sau đó, Hồ Nguyên Trừng được cử làm Tả tướng quốc.
Năm 1406, lấy cớ “Phù Trần diệt Hồ”, vua nhà Minh sai Trương Phụ và Mộc Thạnh mang 80 vạn quân sang đánh nước Việt. Nhiều lần Hồ Nguyên Trừng được giao nhiệm vụ cầm quân chống lại quân Minh xâm lược. Việc ông lập một phòng tuyến chống giặc bắt đầu bằng cứ điểm then chốt Đa Bang (Ba Vì) và kéo dài theo bờ Nam sông Đà, sông Hồng cho đến sông Ninh (Nam Hà), rồi lại tiếp tục theo bờ sông Luộc, sông Thái Bình đến Bình Than dài trên 400km. Chỉ riêng điều này đã tỏ rõ ông là nhà quân sự kiệt xuất.
Hồ Nguyên Trừng cũng là người sáng tạo ra cách đánh độc đáo: Ông cho đúc nhiều dây xích lớn chăng qua những khúc sông hiểm trở, kết hợp với quân mai phục trang bị bằng hỏa lực mạnh và đã nhiều phen khiến thủy binh của giặc phải khiếp đảm. Thời ấy, do yêu cầu chống giặc ngoại xâm, muốn có nhiều súng trang bị cho các thành trì và các hạm đội, Hồ Nguyên Trừng đã phải tổ chức gấp những xưởng đúc súng lớn. Nhờ trí thông minh tuyệt vời và khả năng suy nghĩ phi thường, Hồ Nguyên Trừng đã đúc kết những kinh nghiệm cổ truyền và trên cơ sở đó chế tạo ra nhiều loại súng có sức công phá sấm sét. Từ việc cải tiến súng, chế thuốc súng, hiểu rõ sức nổ của thuốc đạn, Hồ Nguyên Trừng phát minh ra phương pháp đúc súng mới, gọi là súng “thần cơ”.
Ngày 12-5-1407, cả ba cha con ông và người cháu là Hồ Nhuế (con Hồ Hán Thương) đều bị quân nhà Minh bắt tại Kỳ Anh, Hà Tĩnh, rồi bị áp giải về Nam Kinh, Trung Quốc. Kể từ đó, nước Việt rơi vào ách thống trị của nhà Minh. Biết được Hồ Nguyên Trừng và Hồ Nhuế có tài năng, vua Minh Anh Tông cho ân xá, nhưng buộc phải đổi họ khác, đồng thời trưng dụng ông và cho làm quan ở bộ Công. Từ đó nước này mới có bước tiến lớn trên con đường sử dụng thuốc nổ vào chiến tranh.
Theo sách “Vân đài loại ngữ” của Lê Quý Đôn thì trong lịch sử đời Minh có ghi nhận: “Trừng khéo chế súng, chế ra thần cơ cho triều đình, đến nay tế binh khí đều phải tế Trừng”. Trong sách “Thông ký” cũng có đoạn viết rằng: “Lúc đầu Quốc Triều (chỉ nhà Minh) chỉ có 5 quân doanh, ấy là Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu. Đến năm Vĩnh Lạc lấy 3.000 quân kỵ rợ Hồ đặt dưới lá cờ rồng, rồi lập ra tam thiên doanh. Sau khi Nam phạt, học được phép chế thần công thì lập ra Thần cơ doanh”.
Trong Minh sử có ghi: Đến đời vua Thành Tổ nhà Minh (1403-1424) đánh nước Giao Chỉ học được phép đúc thần cơ sang pháo, lúc bấy giờ mới đặt ra đội súng thần cơ. Như vậy, các tài liệu sử học của cả ta và Trung Quốc đều xác nhận rõ ràng, chỉ từ khi có Hồ Nguyên Trừng mới xuất hiện Thần cơ doanh là binh chủng pháo binh đầu tiên của quân đội Trung Quốc và cũng là binh chủng pháo binh đầu tiên của nhân loại.
Cũng theo sử cũ của nhà Minh, sau khi ông chế tạo được súng thần công thì thăng đến chức Tả thị lang như lời ông đề ở cuối bài Tựa trong quyển “Nam Ông mộng lục”. Theo Minh sử thì Hồ Nguyên Trừng được thăng chức Công bộ Thượng thư (1445) được một năm thì mất, thọ 73 tuổi."